Tân Ước Đức_tin_Kitô_giáo

Thuật ngữ "đức tin" có nguồn gốc trong Hi văn πιστις (pi´stis), nghĩa là tin quyết với tinh thần phó thác trong sự tin tưởng vững vàng. Tùy theo nội dung văn bản, thuật từ Hi văn này có thể được hiểu là "trung tín", "chung thủy" hoặc "trung kiên". (1Thessalonians 3: 7[1]; Titus 2: 10[2]).

Trong Tân Ước có một từ chủ yếu thể hiện ý niệm về đức tin. Đó là động từ πιστευω (pisteuo), cùng nguồn gốc với danh từ πιστις (pi´stis). Động từ này có hai nghĩa cơ bản. Thứ nhất, nó có nghĩa là "tin vào điều ai đó nói, chấp nhận một lời tuyên bố (đặc biệt mang tính chất tôn giáo) là đúng."[3] Thứ hai, đức tin có nghĩa là "tin cậy người nào, khác với tin suông một điều gì."[4] Nghĩa này luôn có thể nhận ra được qua việc sử dụng giới từ. Trong Phúc âm Máccô 1:15, giới từ εν (en) được sử dụng, "…các ngươi hãy ăn năn và tin phúc âm." Giới từ εις (eis) được dùng trong Công vụ 10: 43, "Hết thảy các đấng tiên tri đều làm chứng nầy về Ngài rằng hễ ai tin Ngài thì được sự tha tội vì danh Ngài." Sứ đồ Giăng đề cập đến việc tin danh Chúa Giê-su εις το ονομα - eis to onoma, "Nhưng hễ ai nhận Ngài thì Ngài ban cho quyền phép trở nên con cái Thiên Chúa, là ban cho những kẻ tin danh Ngài."[5] Cấu trúc này có ý nghĩa đặc biệt đối với người Do Thái vốn xem danh tánh của một người là hoàn toàn tương đương với người đó. Vì thế, tin vào danh Chúa Giê-su là đặt lòng tin cá nhân vào chính Ngài.[6] Dựa vào những lý do trên, chúng ta kết luận rằng loại đức tin cần có cho sự cứu rỗi bao gồm cả "tin rằng" và "tin vào", tức là chấp nhận một sự thật và tin cậy một người nào đó. Nhất thiết cả hai phải đi đôi với nhau.[7]

Luận giải về chức năng của đức tin trong mối tương quan với giao ước của Thiên Chúa, tác giả thư Hebrew trong Tân Ước viết, "Đức tin là sự biết chắc vững vàng của những điều mình đang trông mong, là bằng cớ (hoặc xác tín) của những điều mình chẳng xem thấy".[8] Υποστασις (hy-po´sta-sis), được dịch là "sự bảo đảm", thường xuất hiện trong các văn bản giao dịch cổ viết trên giấy papyrus, chuyển tải ý tưởng cho rằng giao ước hoặc hợp đồng là biểu thị cho sự tin cậy lẫn nhau, bảo chứng cho việc chuyển đổi tài sản sẽ diễn ra đúng như đã cam kết trong hợp đồng. Cũng đồng quan điểm, Moulton và Milligan diễn giải, "Đức tin là hành động bảo chứng cho những gì đang được mong đợi."[9] Từ e ‘leg-khos trong Hi văn, được dùng để miêu tả "sự xác tín" trong Hebrew 11: 1 miêu tả một sự việc, nhất là sự việc trông có vẻ như mâu thuẫn với những gì đang xảy ra, nhân đó giúp làm sáng tỏ những điều trước đó chưa nhận ra và bác bỏ những gì trông giống như hiện thực. Chứng cớ cho niềm xác tín này là mạnh mẽ và tích cực, ấy chính là đức tin. Đức tin Cơ Đốc, trong ý nghĩa này, không thể đánh đồng với sự cả tin.

Phao-lô gọi Abraham là tổ phụ của những người có đức tin.[10]

Hebrew 11: 6 diễn giải ý nghĩa và vai trò của đức tin trong sống đạo như sau: "Vả, không có đức tin thì không thể làm vui lòng (Thiên Chúa); vì người đến gần Thiên Chúa phải tin rằng có Thiên Chúa, và Ngài là Đấng ban thưởng cho người hết lòng tìm kiếm Ngài."

Khái niệm của Tân Ước về đức tin lập nền trên sự tự mặc khải của Thiên Chúa, nhất là trong ý nghĩa của sự tin tưởng đặt vào các lời hứa cũng như sự quan tâm về những cảnh báo trong Kinh Thánh.

Tác giả các sách trong Tân Ước đồng nhất đức tin vào Thiên Chúa với đức tin vào Chúa Giê-su. Phúc âm Giăng đặc biệt nhấn mạnh khía cạnh này khi ký thuật lời của Chúa Giê-su, "Cha cũng chẳng xét đoán ai hết, nhưng đã giao trọn quyền phán xét cho Con, đặng ai nấy đều tôn kính Con, cũng như tôn kính Cha vậy. Ai không tôn kính Con, ấy là không tôn kính Cha, là Đấng đã sai Con đến."[11] Khi được hỏi, "Chúng tôi phải làm gì để làm công việc của Thiên Chúa?" Chúa Giê-su trả lời, "Công việc của Thiên Chúa, ấy là các ngươi tin Đấng mà Ngài đã sai đến."[12]